Canalblog
Editer l'article Suivre ce blog Administration + Créer mon blog
Publicité
VọngNgàyXanh
12 août 2013

Bích Huyền thực hiện

http://files.myopera.com/phunganhban/blog/ao%20yem%20ca%20dao%20(8).jpg

 

Nỗi Nhớ Trong Ca Dao - Bích Huyền thực hiện

Trong ca dao của chúng ta, nỗi nhớ vấn vương trong từng câu từng chữ :

Ta về mình có nhớ chăng,

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.

Chúng ta có thể tìm thấy ở đây những sắc màu và nỗi nhớ đầy vơi, nỗi nhớ thâm trầm, nỗi nhớ mãnh liệt, mơ hồ hay rõ nét của những người đang chập chững bước vào yêu ; hoặc đang hạnh phúc, đang trăn trở trong mối tình đôi lứa :

Dạ sao gió mát sau lưng,

Dạ sao, rạ nhớ người dưng thế này.

 

Trần Vân Hạc

Trong ca dao Việt Nam, những bài nói về tình yêu nam nữ nhiều hơn cả, mỗi bài mỗi câu đều long lanh tỏa sáng như những nốt nhạc diệu kì trong giai điệu bất tận của tình yêu, cuộc sống. Đặc biệt những cung bậc của nỗi nhớ được khắc họa rõ nét với những khắc khoải khi xa cách, những lo lắng buồn phiền khi muốn bảo vệ mối tình chung thủy.
“Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt’’ (Vich-to Huy-gô). Phải chăng vì “Tình yêu là cuộc sống-tình yêu là mối quan hệ duy nhất kết hợp vạn vật” ( L.Tôn-xtôi) ?
Yêu nhau để rồi thương rồi nhớ, khi sợi “tơ hồng” đã buộc hai người xa lạ với nhau, trái tim thổn thức ngân rung nhịp đập của tình yêu. Đôi người yêu nhau thương nhớ khôn nguôi với tâm trạng chưa từng trải qua:
Gió sao gió mát sau lưng
Bụng sao bụng nhớ người dưng thế này ?
Người ta hỏi để khỏa lấp các tâm trạng bối rối, xốn xang khi nhận ra những rung cảm tuyệt vời, để vơi đi nỗi nhớ.
Trong cuộc sống có biết bao điều để thương để nhớ, nhưng với tình yêu, nỗi nhớ quả là rất đặc biệt :
Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thất thểu như chim tha mồi.
Nhớ ai hết đứng lại ngồi
Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân.
Chỉ với mấy từ “thất thểu’’, “tơ tưởng’’, hình ảnh và tâm trạng của người đang yêu đến độ si tình hiện lên rõ nét với tất cả sự buồn rầu, bồn chồn, ủ dột.
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than
Trong ca dao, so sánh là thủ pháp nghệ thuật thường gặp. Với câu ca dao này có lẽ không một ai có cách diễn đạt đắc địa hơn.
Yêu nhau, người ta nhớ nhau mọi lúc mọi nơi, không kể cả không gian và thời gian:
Bốn mùa xuân-hạ-thu-đông
Thiếp ngồi dệt vải những trông bang chàng
Dừa xanh trên bến Tam Quan
Dừa bao nhiêu trái trông chàng bấy nhiêu.
Cặp từ chỉ số lượng không hạn định diễn tả rất thành công nỗi nhớ nhung vô hạn của “thiếp’’ khi xa “chàng”.
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai ?
Lối nói thậm xưng với đại từ phiếm chỉ đã trở thành một đơn vị nghệ thuật rất độc đáo trong ca dao. Cùng với câu hỏi tu từ và điệp từ, bài ca dao rất tinh tế và thành công khi diễn tả tâm trạng nhớ mong, lo lắng, ước muốn sự chung tình biến cái trìu tượng thành cái cụ thể nhưng đầy ý nhị, sâu sắc.
Nhớ người yêu, người ta nhớ tới những nét duyên dáng đáng yêu của người thương:
Mình về mình nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Có lẽ đó chính là hàm răng đen nhức hạt na, kín đáo như trong “nụ cười như thể hoa ngâu’’ đã hớp hồn kẻ tình si.
Nhưng có lẽ chỉ khi yêu nhau mà phải xa nhau dù với bất cứ lý do gì thì nỗi nhớ càng cháy bỏng, có lúc còn mang hơi thở của sự khổ đau:
Chim bay về núi Sơn Trà
Chồng Nam vợ Bắc ai mà muốn xa.
Sự này cũng tại mẹ cha
Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng.
Có lúc vì những lý do nhất định, đôi người yêu nhau phải xa nhau, họ bất lực và chỉ biết than khóc:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng
Đưa nhau một bước lên đàng
Cỏ xanh hai dãy mấy hàng châu sa.
Trong chế độ phong kiến đây không phải là cảnh hiếm gặp, đã có biết bao “đũa ngọc’ phải xa “mâm vàng’’ vì những hủ tục lạc hậu.
Xa nhau người ta không chỉ nhớ mong da diết mà còn lo lắng cho sự chung tình:
Anh đi đằng ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai, ai có nhớ mình chăng ta?
Ta gặp lại hình tượng “trăng’’ quen thuộc trong tâm trạng thao thức đằng đẵng “năm canh’’ cùng đại từ phiếm chỉ “ai’’ và điệp từ “nhớ’’ trong câu hỏi tu từ khắc họa không chỉ nỗi nhớ, sự lo lắng mà còn là sự hy vọng vào tình yêu.
Họ bầy tỏ sự sắt son thủy chung:
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Đây là một trong những câu ca dao hay nhất về tình yêu, con thuyền tình trong nghệ thuật ẩn dụ làm cho lời thơ gợi cảm thắm thiết và đẹp biết nhường nào.
Nhớ thương, lo lắng, ước muốn khôn nguôi, tình cảm nồng nàn đằm thắm nhưng cách diễn đạt sao mà ý nhị:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt?
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua, em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên mọi bề.
Nghệ sĩ dân gian khéo tránh nói đến cái “tôi’’ và đã sử dụng nhuần nhụy nghệ thuật nhân hóa, những vật vô tri được thổi vào cái hơi cái hồn của tình yêu, chúng bỗng hồi sinh rung động cùng nhịp đập thổn thức của trái tim yêu.
Những bài ca dao nói về tình yêu, về nỗi nhớ thật khó mà kể xiết, trong đó có nhiều bài đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật và nội dung. Có lẽ chỉ tình yêu với những rung cảm mãnh liệt và bất tận mới giúp nghệ sĩ dân gian sáng tạo được những tuyệt bút sống mãi với thời gian.
Ca dao là tiếng vọng ngàn năm của cha ông, là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp mỗi chúng ta hiểu thêm về dân tộc mình, đất nước mình, hiểu hơn về chính chúng ta. Chúng ta hãy cùng chiêm ngưỡng những viên ngọc quý và hãy cùng trân trọng, nâng niu, góp phần làm cho ngọc ngày càng tỏa sáng hơn.

 

________________

Ca Dao và Dân Ca Việt Nam

Ca dao và dân ca là tiếng nói từ ngàn xưa, là Kim chỉ nam hướng dân dân tộc đến muôn đời sau.

Ca dao, dân ca Việt Nam để chúng ta nhìn rõ cuộc đời, thương yêu quê hương, thương yêu nhau, biết nhớ, biết cười, biết khoan hồng độ lượng, biết khóc, biết cảm nhận buồn đau.

Ca dao là từ bi, là bác ái, là cảm thông, là tha thứ…

 

Đường Vào Quê Hương Qua Ca Dao

Phạm Đức Tiến

 

Nếu phật giáo có tới tám ngàn pháp-môn hướng dẫn kẻ mộ đạo đến Chân, Thiện, Mỹ, thời muốn tìm về nguồn sống dân tộc, những người con yêu nước Việt có thể tìm ra bao lối về, trong đó Ca Dao có thể được coi như là một nẻo về của tâm thức, một trong muôn vạn đường vào dân tộc Việt Nam.


Như nhạc sĩ Phạm Duy đã viết: " Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, à a ơi tiếng ru muôn đời..." và " Tiếng nước tôi, bốn nghìn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi..." , ngôn ngữ do đó không những chỉ là một phương tiện để truyền-thông, diễn đạt tình ý con người mà còn là hơi thở, sinh khí phản ảnh nền văn-hoá của một dân tộc, và gắn liền với vận-mệnh của một quốc-gia. Khi còn ấu thơ, chúng ta hầu hết đều được nghe những lời ru đầy tình tứ dân tộc trong các giấc ngủ chập chờn, và cho đến bây giờ, lang thang nơi xứ lạ quê người, " Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi" thỉnh thoảng vô tình bắt gặp trên các tạp chí Việt ngữ những câu Lục Bát quen thuộc như:


" Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng."


hay


" Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao."


Ít ai trong chúng ta để ý rằng đó chính là những câu CA DAO giữa rừng Tục-ngữ, Ca-dao, và Dân-ca bàng bạc trên nên trời văn học bình-dân Việt Nam.


Vậy để nhận diện được những lời CA DAO như trên, ở đây chúng ta sẽ thử định nghĩa CA DAO một cách tóm tắt.


CA DAO là những câu hát ngắn, không có chương khúc. Tuỳ theo nội dung, số câu có thể diễn đạt từ hai, bốn, sáu, tám hay dưới hình thức song Thất Lục Bát, Lục Bát biến thể. Với âm điệu phong phú, những câu ca dao do đó có thể được ngâm nga hay hát lên mà không cần phải có tiếng đệm, tiếng láy, và thường để diễn tả tính tình, phong tục tập-quán của người bình-dân. Do đó CA DAO có khi còn gọi là PHONG DAO, do tiếng PHONG từ phong-tục. Vì sự phong phú trong nội dung ca dao, ở đây chúng ta sẽ giới hạn bài viết trong phạm vi Ca Dao Tổng Quát, tạm gác sang một bên những bài ca dao với nội dung hài hước, gia đình, và trữ tình.


Trước hết, muốn tìm hiểu những cơ duyên giao cảm cho sự chào đời của ca dao, thiết nghĩ không còn gì hơn là chúng ta ngược về quá khứ, trở về với xã-hội Việt Nam ngàn năm về trước. Có thể nói đơn vị căn bản của quốc-gia Việt Nam ngày xưa là làng quê bao bọc bởi những luỷ tre xanh, vốn được coi như là một lớp tường thành thiên nhiên ngăn chặn ngoại xâm. Giửa lớp tre xanh cổ kính đó, đời sống và tâm tình người dân mộc mạc hầu như cô động, tách biệt với những sinh hoạt bên ngoài, ngay cả với những làng xa xóm giềng. Chính khung cảnh xã hội biệt lập này phải chăng đã là một môi trường thuận tiện, làm nảy sinh những điệu hò câu hát là một trong vài thú tiêu khiển đơn sơ thường nhật thuở bấy giờ. Khi ta buồn ta không biết tỏ bày cùng ai, thôi thì ra đứng ngõ sau mà than rằng:


" Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ.
Nhện ơi! nhện hởi! nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi! sao hởi! nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng giải Ngân hà,
Bóng sao Tinh-đẩu đã ba năm tròn,
Đá mòn, nhưng da chẳng mòn,
Tào-khê nước chảy vẫn còn trơ trơ..."


Chỉ một bài ca dao ngắn ngủi, chúng ta đã có thể tưởng tượng ra một cảnh đồng quê Việt Nam trầm mạc trong một đêm trời lấp lánh đầy sao, và sau mái nhà tranh, ánh trăng chênh chếch soi bóng trên mặt ao mơ hồ bóng cá lội. Để rồi trong ánh trăng thanh, kẻ cô dơn bâng khuâng tự hỏi:


" Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?
Núi bao nhiêu tuổi, gọi là núi non?
Trăng bao nhiêu tuổi, trăng tròn?
Núi bao nhiêu tuổi, núi còn trơ trơ?"


Từ nổi buồn bâng quơ, khi đối diện với khung cảnh thanh tịnh, bát ngát của một đêm trăng toàn bích, kẻ cô đơn như chợt bước vào một thế giới vô ưu, đượm màu triết lý:


" Đố ai biết đá mấy hòn?
Tua-rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm?
Đố ai biết lúa mấy cây?
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng?
Đố ai quét sạch lá rừng?
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Đố ai lặn xuống vực sâu,
Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa?
Đố ai nằm võng không đưa,
Ru con không hát? Ta chừa nguyệt hoa."


Những người dân quê của xã hội thời xưa không phải lúc nào cũng ưu tư phiền muộn, vì còn có biết bao nhiêu công việc đồng áng trông đợi. Để bù đắp cho nỗi vất vả của kẻ chân lấm tay bùn, hằng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên-đán, người dân Việt Nam lại gác cày, vui chơi cho bỏ những lúc làm lụng cực nhọc:


" Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè.
Tháng Tư, đong đậu nấu chè,
Ăn Tết Đoan-ngọ, trở về tháng Năm.
Tháng Sáu buôn nhãn, bán trăm,
Tháng Bảy, ngày rằm, xá tội vong nhân.
Tháng Tám, chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng Chín, chung chân buôn hồng.
Tháng Mười, buôn thóc, bán bông,
Tháng Một, tháng Chạp, nên công hoàn toàn..."


Một khi đã trở về đời sống hằng ngày với những lo toan, người dân quê Việt Nam, vốn mang tâm hồn của một thi sĩ lãng mạn, cũng phải phơi bày một phần nào tâm tư và lề thói cư xử thực tế mà xã hội Việt Nam đã ngầm chấp nhận; trong đó hình thức ăn vận bề ngoài cốt biểu lộ sự tự trọng nay đã được tô điểm trở thành méo mó:


" Áo dài chớ tưởng là sang,
Bởi không áo ngắn, mới may áo dài."


Cảm thấy nguỵ biện không xong, ta lại bèn than rằng:


" Cha đời cái áo rách này,
Mất chúng, mất bạn vì mày, áo ơi!"


Từ nỗi ta thán vô ích, ta đâm ra tức tối tạo-hoá đã gây ra cảnh đời đen bạc, để rồi đi đến lý sự cùn, nhạo báng:


" Hơn nhau tấm áo, manh quần,
Thả ra ai cũng ở trần như ai."


Tới đây chúng ta không thể bật cười khi chợt nhớ một câu " ca dao thời đại" tương tự:


" Học cho lắm, tắm cũng ở truồng."


Thế mới biết, tâm tư và tính tình người Việt Nam chúng ta trải qua bao thời đại hầu như không hề thay đổi. Thế nên:


" Cơm ăn chẳng hết thì treo,
Việc làm chẳng hết thì kêu láng giềng."


Hay tương tự như thế:


" Cà thâm thường bỏ góc chạn,
Đến khi hoạn nạn, lại hỏi cà thâm."


Hoặc thẳng thừng hơn:


" Khi vui thì vổ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai."


Kể gì người đời, vì ngay cả đến trời ta vẫn thường hay bỏ quên.


" Có bệnh thì vái tứ phương,
Không bệnh, chẳng mất nén hương giấy vàng."


Hỷ, nộ, ái, ố, và ganh ghét, đố kỵ, bội bạc vốn là những dặc tính tất nhiên của mọi xã hội, trong ca dao Việt Nam, những điều này còn được diễn tả mĩa mai cay đáng hơn:


" Lúc khó thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đổ Trạng, chín nghìn anh em."


Thói đời là thế nhưng sao tráng được, bởi chưng:


" Lòng sông, lòng biển, dễ dò.
Nào ai bẻ thước mà đo lòng người."


Ca dao như thế, ngoài tính cách phô trương những nét trữ tình và phong tục, tập quán của xã hội Việt Nam, còn chê bai thói đời đen bạc, tư cách thấp của con người: nhưng đó chính là một kho tàng luân lý vô giá, một bài học hữu ích cho kẻ hậu sinh tập rèn nhân cách.

Đường vào dân tộc qua ca dao như đường thiên lý, dài vô hạn. Càng đi, ta càng khám phá ra nhiều điều thích thú có liên quan đến đời sống, tâm tư, và cung cách xử thế của người dân Việt, lồng trong một khung cảnh đầy màu sắc quê hương. Cứ như lữ khách đi vào lòng dân tộc, bắt đầu từ ải Nam-Quan đến mũi Cà Mau. Qua mỗi địa danh, lữ khách dừng lại chiêm ngưỡng thắng cảnh cùng các di tích lịch sử, sực nhớ đến công lao dựng nước của tiền nhân.


" Nực cười châu chấu đá xe,
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng."


Hay là:


" Lạy trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm ra khơi."


Đường vào dân tộc qua ca dao còn dài, chúng ta có thể dừng chân tạm nghỉ để ngày mai lại sẽ lên đường. Viết đến đây, kẻ viết bài bỗng sự nhớ đến một câu ca dao của tiền nhân như báo trước sự đổi đời lịch sử ngày ba mươi, tháng tư năm 75:


" Trời làm một trận lăng nhăng,
Ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông."


Lịch sử phải chăng là một vòng tròn khép kín, một sự lập lại. Biết đâu vài chục năm nửa, cháu chắt những người Việt hải ngoại khi muốn tìm về dân tộc Việt Nam qua ca dao bằng... COMPUTER, lúc bấm nút chợt mới ngẩn người vì thấy những câu " CA DAO" khó hiẻu như sau:


" Mai mốt ông về có thằng túm hỏi.
Mầy qua bên Mỹ học được củ gì?
Muốn biết tài nhau đưa ông cây chổi.
Nói mầy hay ông thượng đẳng cu li!"


(thơ Cao Tần)
Phạm Đức Tiến

Publicité
Publicité
Commentaires
Publicité
Archives
Publicité